Thứ Bảy, 17 tháng 3, 2012
Tầm nhìn đốt cháy vũ trụ - 3
Dịch
bởi Đinh Ngọc Khanh
Lý tính của không gian
Đây rất có thể là xu hướng
được yêu thích nhất của Escher, và cũng có thể là lí do tên tuổi của ông còn được
nhắc đến. Cũng có thể đó là lí do bạn sẽ thấy quen thuộc với hoạ sĩ này, sau
khi đọc xong bài báo. Khi nói về lý tính của không gian, chúng ta đang đề cập đến
những qui luật vật lý hiển nhiên mà nếu vi phạm sẽ tạo ra những ảo ảnh. Tất cả
các hoạ sĩ đều quan tâm đến lý tính của không gian, và một số đã khám phá ra những
ứng dụng của các qui luật này vào hội hoạ. Một ví dụ cụ thể, Picasso.
Kết luận
Những tác phẩm của
M.C.Escher đã góp phần gắn kết hội hoạ và toán học trong một mối liên hệ không
thể cắt rời. Chúng ta ở đây chỉ đề cập đến một phần nhỏ trong gia tài đồ sộ những
bức tranh, thạch bản, khắc gỗ và tranh khắc nạo mà hoạ sĩ để lại sau cái chết
vào năm 1972. Còn nhiều điều có thể bàn, và đã được bàn, về chiều sâu, ý nghĩa
và tầm quan trọng của những công trình của ông. Độc giả có thể tìm hiểu sâu hơn
về di sản của M.C.Escher, và về phần giao giữa thế giới của tưởng tượng, thế giới
của toán học và thế giới chúng ta đang sống mà ông vẫn luôn khai thác sâu và
sâu hơn.
Thứ Sáu, 16 tháng 3, 2012
Tầm nhìn đốt cháy vũ trụ - 2
Dịch
bởi Đinh Ngọc Khanh
Hình dạng của không gian
Những tác phẩm quan trọng
nhất của M.C.Escher phần lớn chứa đựng một góc nhìn đầy cá tính về toán học và
bản chất của không gian. Được truyền cảm hứng từ một cuốn sách của nhà toán học
H.S.M. Coxeter, Escher đã tạo nên nhiều tác phẩm với chủ đề về không gian
hyperbolic, với một điển hình tuyệt vời của Giới hạn vòng tròn III (Circle
limit III).
Tác phẩm đề cập đến một trong hai dạng không gian phi Euclide, và mô hình
này thực chất do nhà toán học thiên tài Poincaré sáng tạo ra. Để hiểu rõ bản chất
loại không gian này, hãy tưởng tượng bạn đang ở trong bức hình. Nếu bạn đi từ trung tâm hình tròn ra cạnh ngoài,
bạn sẽ co rút lại như cái cách các con cá được vẽ, và vì thế việc chạm tới được
vòng tròn là bất khả thi đối với bạn. Thật sự thì chuyện này sẽ không hiển
nhiên là phi lý, vì cuối cùng thì trong một không gian Euclide bạn cũng sẽ phải
đi một khoảng cách vô cùng để đến được rìa không gian. Tuy nhiên, quan sát tinh
tế hơn một chút và bạn sẽ nhận ra rằng tất cả mọi tam giác đồng dạng đều bằng
nhau (xét trên cái tỉ lệ co rút được thể hiện bởi đàn cá rực rỡ này), và không
một tứ giác nào có bốn góc vuông, có nghĩa là không gian này đào thải mọi hình
thái của hình vuông và hình chữ nhật. Một không gian lạ kỳ !
Nó vẫn còn bình thường chán nếu so với
một tác phẩm khác của Escher, Đàn rắn (Snakes).
Hình tròn này tạo nên những
hai vùng vô cực, tiến về phía ngoài vòng tròn và tiến về tâm của nó, được thể
hiện bởi sự co rút của những hình tròn nhỏ.
Ngoài các không gian
Euclide và phi Euclide, Escher cũng đặc biệt hứng thú với topology, một nhánh
toán học vừa chớm nở hoa ở thời của ông. Topology tìm kiếm nguồn cảm hứng ở những
tính chất của không gian mà vẫn không đổi khi không gian đó bị kéo dãn hay xoắn
cong – nhưng không bị thủng hay rách – và những nhà topology học vẫn miệt mài
công bố những vật thể kì dị mới. Dải băng Möbius có lẽ là ví dụ cơ bản và thường
gặp nhất, một dải băng từ chối định nghĩa hai mặt của một dải băng. Điều này được
thể hiện trực quan qua tác phẩm Dải băng Möbius II (Möbius strip II). Hãy theo chân đàn
kiến và bạn sẽ hiểu.
Một tác phẩm xuất sắc khác
thể hiện điêu luyện một tính chất tinh tế của toán học, Nhà trưng bày (Print
Gallery).
Một thanh niên đang ngắm
nhìn bức tranh trong phòng trưng bày tranh, bức tranh thể hiện một thành phố cảng
nơi có một cửa hàng, bên trong cửa hàng này là một phòng trưng bày tranh nơi có
một thanh niên đang ngắm nhìn bức tranh thể hiện một thành phố cảng … Chờ chút,
điều gì đang xảy ra ?
Dù tất cả các tác phẩm của
Escher đều có chỗ đứng cả về mặt nghệ thuật và toán học, tác phẩm Phòng trưng
bày tranh vẫn vượt trội hơn hẳn vì tính chất của nó. Bằng cách nào đó tác giả
đã bóp méo không gian, và nhân vật thanh niên vì thế vừa ở trong vừa ở ngoài bức
tranh giả tưởng này. Cùng một lúc. Bây giờ, bạn hãy chú ý đến lỗ thủng giữa bức
tranh. Toán học nói rằng không có cách chi có thể “trám” lỗ hổng này bằng những
đường vẽ mà bức tranh vẫn còn liền lạc như một thể thống nhất. Các nhà toán học
gọi đây là điểm kì dị (singularity), nơi mà kết cấu của bức tranh không còn giữ
được chặt chẽ, và Escher, thay vì gắng gượng dùng thủ thuật để che giấu nó đi,
đã công khai phô bày sự bất lực của mình một cách vinh hiển bằng chữ kí và
“nhãn hiệu” riêng của mình ngay ở giữa bức tranh.
Thứ Năm, 15 tháng 3, 2012
Tầm nhìn đốt cháy vũ trụ - Kỳ 1
Dịch
bởi Đinh Ngọc Khanh
Ít người biết đến cái tên
M.C.Escher. Cũng chắc chắn không kém, chúng ta đã từng xem qua nhiều tác phẩm của
ông mà không biết. Và đó, không hơn không kém, là bậc thầy hội hoạ vĩ đại đã
thêm một chiều vào không gian ba chiều của một bức tranh, chiều sâu toán học.
Ông đã ướp thứ hương vị logic, và cả phi logic, của toán học vào nghệ thuật, và
những thành quả ông đạt được là niềm cảm hướng của nhiều thế hệ. Bài viết sẽ đề
cập đến vài xu hướng sáng tác đầy chất thơ của hoạ sĩ, và cái cách một bức
tranh làm dấy lên câu hỏi trong ta về vũ trụ.
Chia cắt mặt phẳng
Mô
phỏng cách khảm gạch tại Alhambra, Tây Ban Nha
Một sự phân hoạch mặt phẳng
(tessellation) là sự kết hợp của những hình kín bao phủ toàn bộ không gian và rời
nhau. Đây là kỹ thuật thường dùng trong khảm đá hoặc trang trí sách, chủ yếu ở
miền Tây Á. Thông thường những đa giác được dùng nhiều, điển hình như hình
vuông của những ô gạch lát sàn. Escher tiến xa hơn những hình vuông đơn điệu
này, từ nguồn cảm hứng vô tận ông tìm thấy ở cách các nghệ nhân xa xưa đã thổi
luồng sinh khí vào nền gạch khảm ở Alhambra, ông sáng tạo ra cái được gọi là
“không gian thiên biến vạn hoá” (metamorphose), trong đó những hình thù luôn
thay đổi và tương tác với nhau, trong một số trường hợp chúng còn tràn ra khỏi
không gian ban đầu. “Trong những nhánh toán học hiện nay, việc nghiên cứu không
gian mặt phẳng được xem là chỉ trên lý thuyết. Liệu điều này có nghĩa là nó chỉ
đơn thuần là một câu hỏi toán học ? Không, tôi nghĩ vậy. Những nhà toán học đã
mở rộng cánh cửa dẫn vào một thế giới hoàn toàn khác, nhưng họ đã không đi vào
một mình. Bằng bản năng siêu nhiên của mình, họ hứng thú với cái cách cánh cửa
được mở hơn là khu vườn mà nó dẫn vào”, trích bài thuyết giảng của Escher năm
1957.
Chia cắt mặt phẳng bằng những
con chim (Regular division of the plane with birds)
Bước phát triển 1
(Development 1)
(...còn tiếp)
Thứ Tư, 14 tháng 3, 2012
Một vòng quay - Kỳ cuối
Dịch bởi Võ Đức Huy
Xoay hai vòng
Trong số những tính chất phản trực giác của
electron là nó có spin một phần hai. Đây là cách nói toán học để chỉ việc nếu bạn
xoay electron 360 độ, nó sẽ không giống như lúc đầu! Không có điều tương tự trong
đời sống hằng ngày - chúng ta đã quen với việc xoay mọi vật 360 độ và chúng
quay lại như lúc đầu. Với một electron, bạn phải xoay nó 360 độ thêm một lần nữa
để đưa về trạng thái ban đầu.
Khi bạn xoay một electron 360 độ, có điều gì
đó phức tạp hơn là việc chúng trông như cũ. Có một dạng bậc tự do gắn với spin,
và chúng cũng bị thay đổi. Điều xảy ra với spin một phần hai là chúng không
quay lại nguyên trạng mà quay lại đối của trạng thái ban đầu. Vậy nếu bạn xoay
360 độ bạn không quay lại vị trí ban đầu mà ở vị trí đối lại hoàn toàn theo
nghĩa bậc tự do gán cho spin. Bạn phải xoay thêm 360 độ nữa để quay lại nguyên
trạng.
Một bước nhảy vọt cho máy tính
Một máy tính thông thường đương nhiên là một
thiết bị điện tử, nghĩa là chúng sử dụng các electron. Nhưng những bit thông
tin bạn đang điều khiển bằng những công cụ này là những số thông thường, được
biểu diễn dưới dạng nhị phân. Thông tin được lưu dưới dạng một dãy những chữ số
0 và 1. Đây là thông tin cổ điển, cái mà chúng ta đã quen thuộc.
Trong một máy tính lượng tử, cái bạn muốn làm
là sử dụng thông tin lượng tử. Trong thí nghiệm Stern-Gerlach, khi electron đi
qua từ trường và hoặc nhận spin up hoặc spin down và đi vào một trong hai vị
trí. Nhưng đó là một ví dụ của quá trình cơ học lượng tử, vì khi bạn đưa vào một
electron cho trước, nói chung nó sẽ không có spin up hay down, mà ở một trạng
thái khác, gọi là sự chồng chập giữa up và down. Khi electron được đưa qua dụng
cụ đo, bằng cách nào đó nó chọn lấy một spin. Nhưng trạng thái ban đầu của một
electron trước khi tạo ra lựa chọn thì phức tạp hơn “up” và “down” rất nhiều. Gọi
“up” hay “down” cũng như gọi “0” hay “1”.
Một dãy electron trong dạng chồng chập vừa nói
cho ta một dạng thông tin tinh tế hơn dãy nhị phân- và đó gọi là thông tin lượng
tử. Nếu có thể điều khiển electron nhưng tránh làm chúng phải lựa chọn spin, ta
có thể quản lý nhiều thông tin hơn so với trong máy tính bình thường- và nếu
làm điều đó với cùng thời gian, ta sẽ tính toán được nhanh hơn.
Một hệ quả của việc này là khả năng phân tích
ra thừa số những số cực lớn. Nếu cho bạn một số rất lớn và nói rằng đó là tích
của hai số nguyên tố, sẽ rất khó để tìm chúng bằng những kỹ thuật đã biết. Nó sẽ
cần một khoảng thời gian dài không chấp nhận nổi dù có dùng đến siêu máy tính.
Nguyên lý đó được dùng để mã hóa và giải mã thông tin. Nhưng nếu bạn có thể
phân tích ra thừa số những số lớn thì sẽ có khả năng giải những mã đó. Một máy
tính lượng tử - nếu có trong thực tế - sẽ làm vô số điều không thể thành có thể.
Bảo mật thông tin sẽ gặp một thách thức lớn.
![]() |
Máy tính D-Wave (Nguồn internet) |
Cơ học lượng tử đã trở nên kì lạ hơn bất cứ ai
có thể đoán- và chắc chắn hơn tất cả những gì các nhà vật lý thế kỷ 19 có thể
tin. Dù những khái niệm liên quan có vẻ phản lại bất kỳ cách hiểu hợp lý nào,
các quá trình lượng tử đã trở nên thiết yếu trong nhiều công nghệ hiện đại, từ
chụp ảnh y khoa đến tính toán điện tử. Máy tính lượng tử sẽ là một tiến bộ vĩ đại-
với những hệ quả không thể đoán được. Có lẽ sẽ dễ chịu cho tất cả chúng ta nếu
chiếc hộp bí ẩn đó không được mở ra, nhưng chúng ta không thể chỉ nói “tốt hơn
là tôi không biết”, vì ai đó có thể tìm ra trước chúng ta.
Về tác giả
Peter Goddard is Master of St John's College and Professor of
Theoretical Physics in the University of Cambridge. His contributions to
research, which have centred on the development of String Theory, have been
recognised by his election as a Fellow of the Royal Society (1989), the award
of the Dirac Prize and Medal of the International Center for Theoretical
Physics, Trieste, (1997) and appointment as CBE (2002).
He has also been instrumental in the development of programmes
aimed at widening access to the University of Cambridge, and encouraging
ambition and attainment in school students in less advantaged areas of the
country, including St John's College's successful EAGLE project in Lambeth. He
currently chairs the University of Cambridge Joint Committee on Admissions and
the group concerned with co-ordinating initiatives in the University aimed at
widening access and raising aspirations.
Tài liệu tham khảo
Bài gốc xem ở: http://plus.maths.org/content/spin
Thứ Ba, 13 tháng 3, 2012
Triết học của toán ứng dụng - Kỳ cuối
Dịch bởi Võ Đức Huy
Được tạo ra theo hình ảnh của toán học
Chủ nghĩa hình thức và chủ nghĩa logic không
trả lời được câu hỏi của ta. Có lẽ chủ nghĩa Trực giác có thể trả lời, nhưng vẫn
còn nhiều thách thức về khái niệm. Vậy chủ nghĩa Platon thì sao?
Các nhà Platon tin rằng thế giới vật chất là
cái bóng bất toàn của các vật thể toán học (và có lẽ các ý niệm như chân lý hay
cái đẹp). Thế giới vật chất phát triển, cách nào đó, từ thực tại platonic này,
và bắt rễ từ đó, và như vậy các vật và mối liên hệ giữa các vật trong thế giới
in bóng những cái trong thực tại platonic. Sự thật là thế giới được mô tả bởi
toán học không còn là điều bí ẩn vì nó đã thành một tiên đề: thế giới bắt rễ
trong một thực tại toán học.
Nhưng những vấn đề lớn hơn xuất hiện: tại sao
thực tại vật chất phát triển và bắt rễ trong thực tại platonic? Tại sao thực tại
tư tưởng phát sinh từ vật chất? Tại sao thực tại tư tưởng có liên hệ trực tiếp
tới thực tại platonic? Và những câu hỏi trên khác gì với những thần loại cổ xưa
về nguồn gốc của thế giới, từ những thân thể bị giết của các vị thần và các
titan, từ Phật-tính của tự nhiên, hay ý tưởng Abrahamic rằng chúng ta được “tạo
ra theo hình ảnh của Chúa”?
Tất nhiên, niềm tin rằng chúng ta sống trong một
vũ trụ linh thiêng và tham gia vào việc tìm hiểu thiên ý bằng nghiên cứu toán học
và khoa học có lẽ là động lực lâu đời nhất cho tư duy có lý trí, từ Pythagoras
đến Newton và các nhà khoa học ngày nay. “Chúa”, theo nghĩa này, không phải là
một đối tượng trong không- thời gian, không là tổng của mọi đối tượng trong thế
giới vật chất, hay một nhân tố trong thế giới platonic. Mặt khác, Chúa là điều
gì đó gần với tính toàn thể của thực tại platonic. Theo cách này, nhiều trong số
những khó khăn đặt ra cho các nhà platon cũng giống với những khó khăn của các
nhà thần học của Do Thái-Thiên Chúa Giáo- và có lẽ của các tôn giáo và bán-tôn
giáo khác.
Galileo tin rằng “quyển sách của vũ trụ” được
viết bằng “ngôn ngữ” của toán học- một mệnh đề platonic đòi hỏi một câu trả lời
(nếu không là câu hỏi) nếu có. Ngay cả các nhà khoa học toán không tôn giáo
ngày nay cũng hay nói về những cảm giác ngạc nhiên và thích thú khi khai phá
cái giống như thực tại platonic- họ không phát minh toán học, họ tìm thấy nó.
Paul Davies đi xa hơn trong Ý Chúa, và nhấn mạnh bản chất hai chiều của động lực
này. Một nhà toán học không chỉ được thúc đẩy tìm hiểu toán học với hi vọng được
hiểu ý Chúa (một đức Chúa phi ngã như của Spinoza hay Einstein), nhưng khả năng
của chúng ta trong việc truy đến chiếc “chìa khóa của vũ trụ” này gợi ý một mục
đích hay ý nghĩa cho sự tồn tại của chúng ta.
Thật ra, giả thuyết rằng cấu trúc toán học và
bản chất vật lý của vũ trụ cùng khả năng của trí óc chúng ta để tìm hiểu cả hai
cách nào đó là một phần của trí óc, sự hiện diện, hay thân thể của một đấng nào
đó là một câu trả lời gọn hơn cho câu hỏi về nền tảng của toán học và tính khả
dụng của nó hơn những câu trả lời đã nói. Một giả thuyết như vậy, dù ít khi được
dẫn, được tìm thấy trong nhiều hệ thống tôn giáo, văn hóa và khoa học trong vài
thiên niên kỷ qua. Thế nhưng, không phải tự nhiên mà một nhà triết học hay một
nhà khoa học hoàn toàn theo cách nhìn này (dù họ có muốn như thế) vì nó ủng hộ
việc giữ lấy những điều huyền bí thay vì đẩy lùi những ranh giới của cái chưa biết.
Roger Penrose diễn tả rõ ràng nhất điều này với
một sơ đồ ba thế giới. Thế giới platonic, vật chất và tư tưởng được vẽ như những
hình cầu xếp vào một tam giác. Một hình nón nối thế giới platonic với vật chất:
trong dạng tổng quát nhất, sơ đồ cho thấy phần hẹp của hình nón chỉ vào thế giới
platonic còn phần rộng chỉ vào thế giới vật chất. Điều này diễn tả (ít nhất một
phần) thế giới vật chất được biểu hiện từ một ít của thế giới platonic. Một
hình nón tương tự nối thế giới vật chất với thế giới tư tưởng: (ít nhất một phần)
thế giới tư tưởng được nhúng vào thế giới vật chất. Cuối cùng, và kỳ lạ nhất,
hình tam giác được hoàn thành bởi một hình nón từ thế giới tư tưởng vào thế giới
platonic: (ít nhất một phần) thế giới platonic được nhùng vào thế giới tư tưởng.
Mỗi hình nón, mỗi thế giới, là một điều chưa biết.
Chúng ta dường như đã đến bế tắc khi mà bốn ý
tưởng về nền tảng của toán học không thể giải đáp câu hỏi về ứng dụng của toán
học. Nhưng tôi muốn bạn đọc xong bài viết này với cảm nghĩ rằng đó là một tin cực
tốt! Việc gọt giũa những khía cạnh của câu hỏi lớn – tại sao toán ứng dụng tồn
tại?- là một dự án tương lai có thể tạo ra hiểu biết sâu sắc về bản chất của
toán học, của thế giới vật chất, và của vị trí của chúng ta trong cả hai hệ thống.
Về tác giả
Phil
Wilson is a senior
lecturer in mathematics at the University of Canterbury, New Zealand. He
applies mathematics to the biological, medical, industrial, and natural worlds.
Tài liệu tham khảo
Bài gốc xem ở: http://plus.maths.org/content/philosophy-applied-mathematics